top of page

Tất cả các hệ thống hướng tới an ninh năng lượng

Quy hoạch phát triển điện lực VIII giai đoạn 2021-2030, có xét đến năm 2050 mới được phê duyệt nhằm cải thiện an ninh năng lượng của đất nước và đưa ra lộ trình phát triển các nguồn năng lượng theo hướng xanh.


Tuy nhiên, việc thực hiện các mục tiêu sẽ là một thách thức lớn đối với tất cả các bên liên quan.


Thủ tướng Phạm Minh Chính đã phê duyệt Quy hoạch Phát triển Điện lực VIII (QHĐ8) bị trì hoãn từ lâu, sẽ định hướng chính sách năng lượng quốc gia trong phần còn lại của thập kỷ này và hơn thế nữa.


Kế hoạch đang chờ sự cho phép chính thức của Quốc hội, dự kiến ​​sẽ họp từ ngày 22 tháng 5. Bản đệ trình QHĐ8 đầu tiên được thực hiện vào tháng 3 năm 2021 và hơn 10 bản dự thảo đã được xuất bản.


Ông John Rockhold, Chủ tịch Phòng Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham) cho biết: “Chúng tôi đã chờ đợi QHĐ8 được phê duyệt trong vài năm nay, vì vậy đây là một tin tuyệt vời. “Tôi đánh giá cao việc chính phủ đã dành đủ thời gian để nghiên cứu và tham khảo một QHĐ8 thực tế. Điều này phù hợp với những nỗ lực phối hợp của chính phủ nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng xanh hướng tới các cam kết đạt được lượng khí thải carbon bằng không vào năm 2050.”


Trong khi đó, ông Bùi Vĩnh Thắng, giám đốc quốc gia tại Việt Nam tại Hội đồng Năng lượng Gió Toàn cầu, nói với VIR, “Với sự chấp thuận này, chính phủ Việt Nam và ngành có thể chuyển sang giai đoạn thực hiện để biến các mục tiêu đầy tham vọng về chuyển đổi năng lượng và cam kết bằng không thành hiện thực. Chúng tôi hoan nghênh mục tiêu đạt 28 GW năng lượng gió vào năm 2030, bao gồm 22 GW trên đất liền và 6 GW ngoài khơi”.


Nguồn: allens.com.au


Vạch ra lộ trình


QHĐ8 đặt mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng đến năm 2030, với tầm nhìn đến năm 2050. Kế hoạch toàn diện bao gồm các khía cạnh chính, bao gồm kết nối lưới điện với các nước láng giềng.


Theo kế hoạch, đến năm 2030, dự kiến ​​tỷ lệ các nguồn năng lượng tái tạo - bao gồm thủy điện, năng lượng mặt trời, gió và sinh khối - trong tổng công suất năng lượng sẽ tăng khoảng gấp đôi.


Kế hoạch này cũng tìm cách giảm sự phụ thuộc vào năng lượng nhiệt đốt than, do đó phù hợp với xu hướng toàn cầu hướng tới năng lượng bền vững. Điện than, hiện là một thành phần quan trọng trong cơ cấu năng lượng của Việt Nam, cũng sẽ giảm từ khoảng 30% xuống 20% ​​vào năm 2030, trong khi tỷ lệ đóng góp của khí đốt tự nhiên sẽ tăng gần gấp đôi. Hướng tới năm 2050, các nguồn điện than sẽ bị loại bỏ gần như hoàn toàn.


Hướng đến năm 2050, các nguồn năng lượng tái tạo sẽ phát triển mạnh mẽ, chiếm 70% tổng công suất điện và sản xuất 80% tổng lượng điện (xem biểu đồ).


Trong đó, đến năm 2030, điện gió trên bờ và ngoài khơi phục vụ nội địa lần lượt khoảng 21.880MW và 6.000MW, chiếm 4% và 14,5% tổng công suất phát điện cả nước. Đến năm 2050, lượng điện này dự kiến ​​sẽ tăng lên 70.000-91.500MW đối với điện ngoài khơi, tương đương 14-16% tổng số.


Trong khi đó, khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) sẽ đóng góp 14,9% vào tổng công suất phát điện vào năm 2030.


Theo kế hoạch, công suất điện khí sẽ đạt 40,3 GW vào năm 2035, nhưng khi năng lượng khí hỗn hợp và hydro ngày càng phổ biến, tỷ trọng khí đốt sẽ giảm xuống 7% vào năm 2050.


Chủ tịch AES Việt Nam Joseph Uddo cho biết: “Đây là một bước tiến lớn trong quá trình chuyển đổi năng lượng của Việt Nam. Việc tập trung vào LNG và năng lượng tái tạo rất có ý nghĩa. Điều này chính thức hóa sự hỗ trợ liên tục mà AES đã nhận được đối với dự án CCGT Sơn Mỹ của chúng tôi và dự án nhà ga LNG Sơn Mỹ. Rõ ràng là những dự án này có tầm quan trọng quốc gia.”


Stuart Livesey, Giám đốc điều hành của Copenhagen Offshore Partners Việt Nam, cũng phản hồi tích cực về việc phê duyệt QHĐ8.


Công ty hiện đang tham gia phát triển dự án điện gió ngoài khơi La Gan 3,5 GW ngoài khơi bờ biển nam trung bộ Bình Thuận, ngoài ra còn có thêm 4 GW ở phía nam và 6 GW ở phía bắc của các dự án phát triển giai đoạn đầu trên khắp nhiều tỉnh.


Livesey giờ đây đã tin tưởng hơn vào các mục tiêu phát triển điện gió ngoài khơi ở Việt Nam và hiện đang dự đoán những bước phát triển tiếp theo. “Sự chấp thuận đã củng cố tiềm năng của thị trường Việt Nam. Chúng tôi tin tưởng rằng nếu chính phủ có thể thiết lập một kế hoạch thực hiện rõ ràng với việc lựa chọn nhà đầu tư minh bạch và các thỏa thuận mua bán điện tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, thì 6 GW điện gió ngoài khơi có thể được cung cấp hiệu quả vào năm 2030,” Livesey nói.


QHĐ8 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng cơ sở hạ tầng lưới điện thông minh vững chắc có khả năng tích hợp và vận hành thành công các nguồn năng lượng tái tạo quy mô lớn. Việc Việt Nam nhấn mạnh vào cơ sở hạ tầng lưới điện thông minh nhấn mạnh cam kết của Việt Nam đối với năng lượng tái tạo hiệu quả và đáng tin cậy.


Giai đoạn 2021-2030 sẽ xây dựng mới 49.350 megavolt ampe (MVA), cải tạo 38.168MVA trạm biến áp 500kV, xây dựng mới 12.300km đường dây 500kV và cải tạo 1.320km.


Ngoài ra, QHĐ8 nhấn mạnh sự cần thiết phải giảm phát thải khí nhà kính liên quan đến sản xuất điện, với mục tiêu đạt mức phát thải cao nhất không quá 170 triệu tấn vào năm 2030.



Điều gì sẽ diễn ra tiếp theo?


Vốn đầu tư ước tính cho phát triển nguồn và lưới điện truyền tải khoảng 134,7 tỷ USD cho giai đoạn 2021-2030 và 399-523 tỷ USD cho giai đoạn 2031-2050.


Một thách thức khác đối với việc thực hiện QHĐ8 là thời gian. Chỉ còn chưa đầy 7 năm nữa để Việt Nam có thể tăng gấp đôi tổng công suất điện so với hiện nay, cùng với đó là khoản đầu tư khổng lồ vào lưới điện. Mục tiêu chuyển đổi năng lượng xanh đầy tham vọng đòi hỏi cơ chế rất đặc thù để thu hút nguồn vốn khổng lồ, công nghệ hiện đại nhất cả trong và ngoài nước.


Theo ông Tomaso Andreatta, Chủ tịch Ủy ban Tăng trưởng Xanh tại Phòng Thương mại Châu Âu tại Việt Nam, việc phê duyệt QHĐ8 là một bước quan trọng trong việc hoàn thiện khuôn khổ chính thức của chính phủ nhằm cải cách hệ thống năng lượng để đáp ứng các nhu cầu sắp tới.


“Tuy nhiên, công việc thực sự bắt đầu ngay bây giờ là xác định các công cụ pháp lý để thực hiện các kế hoạch, thống nhất các quy trình cấp phép thông qua một cổng duy nhất và tài trợ cho một kế hoạch đầu tư cực kỳ tham vọng vượt quá khả năng của quốc gia,” ông nói. “Chúng ta cũng phải thay đổi quy trình ra quyết định của tất cả các bên liên quan bằng cách xem xét kinh tế vòng đời chứ không chỉ đầu tư ban đầu, đồng thời thích ứng với các công nghệ mới có thể cồng kềnh hơn hiện nay nhưng chỉ cho phép đạt được tiến bộ thực sự đối với quá trình khử cacbon.”


Andreatta giải thích việc loại trừ carbon và tín dụng carbon mới không thể cân bằng lại lượng khí thải carbon của khí tự nhiên, LNG và than. Một lượng lớn năng lượng tái tạo cơ bản và hydro xanh đi kèm với kho lưu trữ càng sớm càng khả thi có thể được cung cấp nhiều chỗ hơn nữa.


“Những cải cách cần thiết để thành công bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau như củng cố ngân hàng địa phương, mở cửa cho đầu tư quốc tế vào cơ sở hạ tầng, cải thiện vị thế tín dụng của Việt Nam và củng cố ngành Điện lực Việt Nam bằng cách đưa giá năng lượng vào bù đắp toàn bộ chi phí và đầu tư cần thiết để cải tạo hoàn toàn lưới điện , với sự hỗ trợ của các công ty tư nhân,” ông nói thêm.


Rochhold từ AmCham cho biết thêm, để thu hút đầu tư vào ngành điện, vẫn còn rất nhiều việc phải làm để xây dựng và triển khai QHĐ8. “Điều đó thậm chí còn cần thiết hơn trong bối cảnh khủng hoảng năng lượng và điều kiện mùa hè. Với tình hình nắng nóng như hiện nay, nguy cơ thiếu điện tăng cao nên Việt Nam cần sớm đầu tư vào ngành điện, thúc đẩy và phát triển các dự án này”, ông nói.


Tại cuộc họp báo ngày 18/5, đại diện Bộ Công Thương khẳng định đang khẩn trương thực hiện các nhiệm vụ Chính phủ giao để làm cơ sở pháp lý triển khai QHĐ8. Bộ Công Thương được giao nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế, chính sách như hoàn thiện Luật Điện lực sửa đổi, xây dựng cơ chế PPA trực tiếp.


Chi tiết Quy hoạch phát triển điện VIII


-Tổng công suất năng lượng sẽ tăng từ 76GW hiện tại lên hơn 158GW vào năm 2030.


-Công suất điện than sẽ tăng lên khoảng 30GW từ 24GW hiện tại. Đây là gần 20 phần trăm hỗn hợp năng lượng, giảm từ 30 phần trăm hiện tại.


-Hiện tại với công suất 7GW, khí nhiệt điện sẽ tăng lên gần 15GW khí đốt trong nước và 22GW khí tự nhiên hóa lỏng nhập khẩu vào năm 2030.


-Năng lượng mặt trời và gió sẽ chứng kiến ​​sự phát triển vượt bậc, với lượng gió ngoài khơi đáng kể được áp dụng và năng lượng mặt trời trên mái nhà được chú trọng.


-Các quy định cũng được đưa vào đối với hợp đồng mua bán điện trực tiếp mà các tập đoàn lớn đang kêu gọi.


(VIR)


Comments


bottom of page