top of page

Việt Nam chuẩn bị áp dụng thuế carbon để theo đuổi mục tiêu phát thải ròng bằng 0

Thông tư chính thức về đo lường phát thải khí nhà kính (GHG) dự kiến ​​sẽ được ban hành vào tháng 11 này, sau đó là các khóa đào tạo cho doanh nghiệp về tuân thủ kiểm soát khí nhà kính.


Carbon taxes

Khi thuế và tín dụng carbon ngày càng phổ biến trên khắp các thị trường trên thế giới, Việt Nam đang tìm cách thể hiện trách nhiệm của mình trong việc khử cacbon và giúp các doanh nghiệp địa phương thích ứng với sự thay đổi.


Một thông tư chính thức về đo lượng phát thải khí nhà kính (GHG) dự kiến ​​sẽ được ban hành vào tháng 11 này, đưa Việt Nam tiến một bước gần hơn đến mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.


Thông tư do Bộ Công Thương chủ trì sẽ kèm theo các khóa đào tạo cho các doanh nghiệp tuân thủ kiểm soát khí nhà kính nhằm hạn chế lượng khí thải carbon trong toàn bộ chuỗi cung ứng.


Ông Hoàng Văn Tâm, Phó trưởng Văn phòng Biến đổi Khí hậu và Tăng trưởng Xanh của Bộ Công Thương cho biết, việc đo lường, báo cáo và xác minh việc giảm nhẹ khí nhà kính sẽ là bắt buộc vào năm 2025 đối với các ngành áp dụng bao gồm sản xuất thép, xi măng, nhôm và phân bón.


Động thái này được coi là một phần trong kế hoạch ứng phó lớn hơn của Việt Nam trước những thay đổi trong quy định về thuế carbon đã được khởi xướng trên toàn thế giới - một trong những cơ chế đáng chú ý nhất là Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) do Liên minh châu Âu (EU) đưa ra.


Ngành thép Việt Nam chứng kiến ​​sự tăng trưởng đáng kể trong xuất khẩu sang EU, đặc biệt khi Hiệp định Thương mại tự do EU-Việt Nam (EVFTA) có hiệu lực vào tháng 8/2020.


Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), tính đến tháng 6/2020, xuất khẩu thép sang EU chỉ chiếm 3,4% tổng kim ngạch xuất khẩu thép. Sau hai năm, con số này tăng lên 20,51%.


Sáu tháng đầu năm 2023, Việt Nam xuất khẩu gần 1,4 triệu tấn thép sang EU.


“Các chính sách định giá carbon toàn cầu, trong đó có CBAM, gửi tín hiệu tới tất cả các doanh nghiệp ở Việt Nam, dù lớn hay nhỏ, rằng họ phải suy nghĩ về việc giảm lượng khí thải và dấu chân carbon trong chuỗi sản xuất và cung ứng của mình”, ông Tâm nói.


Cơ chế này đặt giá cho lượng khí thải thải ra trong quá trình sản xuất hàng hóa vào EU, đảm bảo rằng giá carbon nhập khẩu phù hợp với giá carbon của sản xuất trong liên minh.


Mục đích của công cụ này là để ngăn chặn 'rò rỉ carbon', xảy ra khi các công ty có trụ sở tại EU chuyển hoạt động sản xuất sử dụng nhiều carbon sang các địa điểm khác với các quy định về khí hậu ít nghiêm ngặt hơn.


Bà Jennifer Pham, Cố vấn Phát triển bền vững khu vực tại Đại sứ quán Đan Mạch tại Việt Nam, giải thích cơ chế này: “Cơ chế này đảm bảo tính bền vững không trở thành rào cản đối với các doanh nghiệp đang hoạt động tại EU, nơi có yêu cầu cao hơn, khắt khe hơn về thân thiện với môi trường hoặc trở thành một yếu tố tiêu cực đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.”


Bà nói thêm: “Cũng có hy vọng rằng thông qua các biện pháp được sử dụng trong CBAM, chúng tôi có thể khuyến khích hành động về khí hậu ở địa phương và tạo ra các động lực cần thiết để các doanh nghiệp hoặc chính phủ ở những nơi khác cũng thực hiện các mục tiêu tương tự”.


Ông Phạm cũng lưu ý rằng cần có một giai đoạn chuyển tiếp và sẽ có những thách thức nhất định trong công tác quản lý việc tuân thủ CBAM.


Bà cho biết, ví dụ, loại hình ghi lại carbon sẽ được yêu cầu trong CBAM là điều mới mẻ không chỉ đối với các công ty ở Việt Nam mà còn đối với nhiều công ty ở EU.


Phạm cho biết: “Đó chắc chắn là một trong những thách thức mà chúng tôi đang xem xét khi tiếp tục triển khai”.


Phạm Ngọc Tiến, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương tại Hà Nội, cho biết, EU là nước duy nhất áp dụng CBAM vào thời điểm hiện tại, do đó, các nhà sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm sử dụng nhiều carbon có thể chuyển hướng cung cấp sang các thị trường khác để tránh tình trạng thuế cacbon.


Tuy nhiên, điều này sẽ không thể thực hiện được nữa khi CBAM hoặc các cơ chế tương tự khác trở nên phổ biến hơn thì tác động sẽ rất lớn, ông nói.


Không chỉ các doanh nghiệp sản xuất đang chuẩn bị giảm lượng carbon. Ví dụ, ngành hàng không đã chứng kiến ​​một số sáng kiến ​​khử cacbon.


Vào tháng 10 năm 2022, Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO) đã đặt ra “mục tiêu khát vọng dài hạn” của mình, đó là tất cả các thành viên đều đồng ý đạt mức phát thải carbon ròng bằng 0 vào năm 2050.


Các quốc gia trên khắp EU cũng đã và đang hành động để hạn chế các chuyến bay đường ngắn nơi có sẵn các tuyến đường sắt nhằm nỗ lực giảm lượng khí thải carbon của khu vực.


Pháp đã cấm các chuyến bay có sẵn các chuyến tàu thay thế kéo dài 2,5 giờ hoặc ít hơn, trong khi Đức tăng gấp đôi thuế đối với các chuyến bay khoảng cách ngắn.


Helene Burger, người đứng đầu bộ phận Hợp tác Quốc tế và Bền vững của Airbus Châu Á-Thái Bình Dương, cho biết, nhà sản xuất máy bay Airbus cho biết họ cam kết giảm 63% lượng khí thải carbon vào năm 2030 và giảm 43% lượng nhiên liệu thải ra từ các chuyến bay vào năm 2035.


Ông Nguyễn Quang Trung, Giám đốc kế hoạch và phát triển doanh nghiệp của hãng hàng không quốc gia Vietnam Airlines, lưu ý rằng máy bay thế hệ mới có thể giúp giảm mức tiêu thụ nhiên liệu, nhưng số lượng chuyến bay cao cùng với thời gian cần thiết để công nghệ mới được phổ biến rộng rãi có thể cản trở. nỗ lực.


Ông cho biết, yếu tố chính góp phần giảm lượng khí thải carbon dự kiến ​​sẽ là nhiên liệu hàng không bền vững (SAF), mà các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng nhiên liệu này đóng góp 60% vào các đổi mới trong quá trình khử cacbon.


Trung cho biết thêm: “Nhưng chúng tôi cần rất nhiều nghiên cứu và đổi mới để giảm chi phí sản xuất SAF và tăng số lượng SAF.


“SAF hiện chỉ chiếm 1% nhiên liệu hàng không và giá SAF thường cao gấp 2 đến 4 lần so với nhiên liệu hiện nay”.


Ông cho biết, việc phân phối và sản xuất SAF cũng chưa có ở Việt Nam.


Ông Tâm, Phó trưởng Văn phòng Biến đổi khí hậu và Tăng trưởng xanh của Bộ Công Thương tin rằng các nguồn lực quốc tế, đặc biệt là hỗ trợ kỹ thuật, rất cần thiết cho Việt Nam trong tương lai.


“Tôi nghĩ vấn đề lớn nhất ở đây là tài chính và công nghệ, những thứ mang đến cho các doanh nghiệp ở cấp cơ sở cơ hội chuyển đổi năng lượng và khử cacbon trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn”, Tâm nói.


Dữ liệu khảo sát gần đây của Tổng cục Thống kê Việt Nam cho thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) chiếm hơn 97% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam.


Florian Beranek, thành viên ban điều hành Phòng Thương mại Trung và Đông Âu tại Việt Nam (CEEC), tin rằng dù chủ đề được gọi là ESG (quản trị môi trường, xã hội và doanh nghiệp), CSR (trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp) hay đạo đức kinh doanh, thì cốt lõi là tất cả về tính toàn vẹn.


“Tôi thực sự khuyên mọi người đang kinh doanh trước tiên hãy quay lại với nhận thức chung của mình, với radar tự nhiên về đạo đức và đạo đức của bạn, sau đó đưa ra quyết định kinh doanh của mình.


Ông nói: “Nếu bạn làm như vậy, bạn không phải lo lắng về tất cả những yêu cầu này.


Beranek đã làm việc tại Việt Nam từ năm 2009, khi ông đến Việt Nam với vai trò cố vấn cho một dự án của UNIDO (Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc) nhằm giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại địa phương, chủ yếu trong lĩnh vực dệt may, da giày và điện tử, thích ứng và áp dụng CSR.


“Tôi nghĩ điều quan trọng là EU phải nỗ lực trực tiếp cùng với các công ty châu Âu và Việt Nam trong việc hỗ trợ các chương trình để giúp họ quản lý kênh quy định này.


“Đó là một thử thách, nhưng cuối cùng thì điều quan trọng là phải làm mọi việc đúng cách và bạn không cần phải lo sợ rằng đó là một gánh nặng.”

(VNS)


Comments


bottom of page